Những lời khen ngợi từ bạn bè làm tôi rất vui - bongdaso

Mục lục

Nỗi lo về diện mạo của tôi

So với vóc dáng, tôi còn lo lắng hơn về cách ăn mặc. Có lẽ do một nữ bạn cùng lớp hồi cấp hai đã từng nói rằng tôi không có gu thời trang – điều mà tôi vẫn nhớ rất rõ cho đến tận bây giờ. Điều này thực sự để lại bóng tối tâm lý sâu sắc. Khi vào đại học và bắt đầu tự chọn lựa trang phục, tôi trở nên say mê việc phối đồ một cách gần như điên cuồng.

Nhìn lại, sự thay đổi trong phong cách ăn mặc của tôi có vẻ hơi thái quá. Trước đây, tôi chỉ thích mặc áo thun trắng kết hợp quần đen, hoàn toàn tránh xa mọi họa tiết. Nhưng mùa hè năm nay, tôi đã mua một chiếc áo sơ mi hoa màu tím (có in hình hoa và thỏ), kèm theo một chiếc cà vạt tím và quần short tím. Đến khi thay đổi mùa, tôi phát hiện ra rằng tủ đồ của mình đầy ắp những chiếc áo sơ mi hoa rực rỡ.

Mùa thu vừa bắt đầu, tôi đã dành rất nhiều thời gian để chọn trang phục. Việc phối đồ trở thành một cách để tôi bày tỏ bản thân. Tôi không thích kiểu mặc áo len kèm áo khoác thông thường, nhưng lại sợ mình không đủ tự tin để mặc áo trench coat. Vì vậy, việc tìm hiểu phong cách riêng đã tiêu tốn không ít công sức.

Điều khiến tôi lo lắng nhất chính là lúc phải ra ngoài phố trong bộ trang phục mới. May mắn thay, xung quanh tôi có nhiều người bạn thân thiện, họ luôn chú ý và đưa ra phản hồi tích cực về cách ăn mặc của tôi. Những lời khen ngợi từ bạn bè làm tôi rất vui. Tuy nhiên, phần lớn nỗi lo lắng của tôi lại xuất phát từ những ánh mắt của người lạ trong không gian công cộng.

Dù ở mức độ lý trí, tôi rất rõ rằng chẳng ai thực sự để tâm đến tôi. Nếu có ai không hài lòng với trang phục của tôi, thì chắc hẳn người đó đang gặp vấn đề gì đó. Nhưng hệ thống tư duy thứ hai của tôi không thể lúc nào cũng hoạt động để nhắc nhở hệ thống thứ nhất về điều này. Kết quả là, tôi vẫn cảm thấy rõ ràng rằng mình nghĩ những người vừa lướt qua mình chắc chắn đang cười nhạo: “Sao anh ta lại mặc một chiếc quần màu sắc quá nổi bật thế kia?”

Tôi quên kể một chi tiết nữa. Vào tháng Sáu, tôi đã nhuộm tóc – cụ thể là nhuộm highlight màu xanh lá cây, đơn giản vì tôi thích. Giống như trang phục, tôi rất hài lòng với kiểu tóc mới này, và bạn bè của tôi cũng đánh giá cao nó (thấy ai mở to mắt, thốt lên “Wow” rồi nhìn mình với ánh mắt ngạc nhiên thật sự là một niềm vui). Tuy nhiên, chúng tôi vẫn quan tâm đến phản ứng của người lạ.

Tóc nhuộm màu xanh lá thực sự rất dễ thu hút sự chú ý. Một số phản ứng phổ biến mà tôi đã quan sát được từ người lạ bao gồm:

  • Nhìn chăm chú một cách bình thường
  • Ánh mắt nghi hoặc xen lẫn chút lo lắng
  • Mỉm cười không giấu nổi khi nhìn vào mái tóc của tôi (thường là nam giới, họ thấy màu xanh lá trên đầu thật đáng buồn cười)
  • Tại tiệm cắt tóc, các thợ thường cố gắng bắt chuyện bằng câu “Thực ra màu xanh cũng khá đẹp đấy chứ hả?” và đồng nghiệp của họ cũng liếc nhìn thêm vài lần
  • Nhận xét kiểu “Tóc em có cá tính đấy, ổn lắm!”

Tuy nhiên, tôi không hề lo lắng về kiểu tóc, thậm chí còn thấy thú vị khi quan sát phản ứng của mọi người. Có lẽ tôi đã quen với điều đó. Nhưng tôi vẫn rất chú trọng đến việc chăm sóc tóc trước khi ra ngoài, nếu không sẽ cảm thấy không thoải mái.

Hài hước thay, đôi khi chính màu tóc của tôi đã thu hút sự chú ý đến mức bị hai nhân viên bán hàng chặn lại trên đường.

Khoảnh khắc khó chịu nhất là khi chạy bộ, buộc phải mặc quần thể thao, trong khi tôi lại thiếu một chiếc áo phù hợp cho mùa thu đông. Cơ thể đổ mồ hôi sau khi vận động, tóc rối bời, lúc này tôi rất sợ bị người khác nhìn thấy.

Tôi cũng hay soi mói người khác. Chẳng hạn, nếu ai đó mặc một chiếc áo hoodie dài màu tím sáng, bên ngoài lại khoác thêm một chiếc áo khoác jean màu xanh nhạt, và chiếc áo hoodie lộ ra khỏi áo khoác vì tay quá dài, tôi chắc chắn sẽ không kiềm được ý kiến của mình. Nếu không kiểm soát được, tôi có thể buột miệng nói: “Anh/chị chẳng có tí gu thẩm mỹ nào cả.”

Sự ánh xạ tâm lý

Ánh xạ (Projection) là một cơ chế phòng vệ tâm lý, trong đó con người thường chuyển những cảm xúc bất an của mình sang người khác. Họ vô thức phủ nhận những động cơ, mong muốn, hành vi xấu của bản thân và đổ lỗi cho yếu tố bên ngoài.

Điều này đặc biệt phổ biến ở những kẻ bắt nạt. Hành vi bạo lực của họ đối với người yếu đuối thực chất phản ánh sự bất an về khả năng của chính họ. Họ không muốn bị coi là yếu đuối, vì vậy họ ép buộc hình ảnh “yếu đuối” ấy lên người khác để chứng minh sự mạnh mẽ của mình. Một ví dụ khác là khi ai đó nói: “Anh/chị như vậy sau này sẽ cô độc cả đời,” điều này có thể ngụ ý rằng chính họ đang sợ hãi điều đó.

Nói ngắn gọn, ánh xạ là việc đặt một phần thuộc tính của bản thân lên người khác và nhầm tưởng rằng đó là thuộc tính của người khác, chứ không phải của mình. Thông thường, điều này xảy ra để đạt được sự nhất quán trong suy nghĩ.

Tóm lại, tôi có khá nhiều nỗi lo liên quan đến ngoại hình. Loại lo lắng này bắt nguồn từ bản năng và cảm xúc, không phải chỉ thay đổi nhận thức là có thể giải quyết được.

Tôi nghĩ điều này giống như khái niệm “ngục giam toàn cảnh.” Là một tù nhân bị nhốt trong nhà tù, tôi không thể nhìn thấy liệu có ai ở trong phòng quan sát trung tâm hay không, vì vậy tôi bắt đầu tự giác kiểm soát hành vi của mình, dẫn đến cảm giác lo lắng.

Vượt qua giới hạn nhận thức

Theo tôi, điều này cần có đủ trải nghiệm và tiếp xúc mới có thể giải quyết được. Khi thực sự khám phá và tìm thấy phong cách riêng của mình, tôi có lẽ sẽ không còn quan tâm đến cách người khác nhìn nhận. Cũng giống như khi viết lách hoặc diễn thuyết, khi tôi thực sự hiểu rõ mình muốn viết gì, nói gì, và tin rằng những gì mình viết có một chút giá trị đúng đắn, tôi có thể tự tin bày tỏ.

Nói một cách dễ hiểu, lo lắng về bản thân xuất phát từ sự thiếu tự tin. Câu này có vẻ như là một lời thừa, nhưng để hiểu rõ logic phía sau lại rất quan trọng. Con người cảm thấy lo lắng vì thiếu tự tin, và sự thiếu tự tin thực tế là do không hiểu rõ “bản thân” là gì. Khái niệm “là gì” thực chất là quá trình xây dựng hệ thống tự nhất quán của bản thân. Nghe có vẻ phức tạp, nhưng thực tế là nói rằng để thoát khỏi trạng thái thiếu tự tin, bạn cần hiểu rõ mình muốn làm gì và tại sao lại làm như vậy. Nếu không hiểu rõ mình là ai, khái niệm “bản thân” sẽ không tồn tại, và làm sao có thể nói đến tự tin?

Sử dụng từ “hiểu” có lẽ chưa thực sự chính xác. Vì như đã nói trước đó, điều này không phải chỉ thông qua thay đổi nhận thức mà có thể thay đổi được. Nghĩa là, tự tin hay không thực chất là một “cảm xúc” chứ không chỉ là “lý luận” trên phương diện lý trí. Để đạt được sự tự tin thực thụ, không chỉ cần giúp cá nhân hiểu rõ tự tin là gì và tại sao cần tự tin, mà quan trọng nhất là phải thông qua đủ trải nghiệm và tiếp xúc để cá nhân cảm nhận rằng thực tế đúng như lý luận đã nói.

Ví dụ, khi còn nhỏ, những bài giảng đạo lý của người lớn dường như đều hợp lý về mặt lý luận, và tôi cũng có thể chấp bongdaso nhận ở một mức độ nào đó. Nhưng tôi tin rằng hầu hết người lớn đều có trải nghiệm về việc đột nhiên ngộ ra điều gì đó sau khi trải qua một số sự kiện. Chỉ qua những giây phút đột ngộ này, chúng ta mới nhận ra rằng “À, hóa ra những gì người lớn nói đều đúng cả.” Ví dụ, nếu không gặp vài người thích nói khoác, có lẽ tôi sẽ không thực sự cảm nhận được mức độ chân thực của câu “Nửa chai nước thì kêu to,” mà chỉ nghĩ rằng đó là cách người lớn ngăn cản tôi nói chuyện trong lớp.

Bạn có thể chia tư duy thành hai hệ thống đơn giản (mặc dù không hoàn toàn chính xác): “lý trí” và “cảm tính”. Phần lớn các nguyên tắc và sự thật, bạn đều có thể nhận thức đúng đắn thông qua lý trí, nhưng điều này không có nghĩa là bạn có thể thực sự thuyết phục được tư duy cảm tính của mình.

Trong một bình luận dưới bài viết của Bạch Xióng A Vương “Toàn thân đều là điểm G: Độ nhạy văn hóa và nohu club tai game nổ hũ đổi thưởng lo âu xã hội,” tôi đã viết:

Làm công việc bán thời gian, tôi có thể quan sát rõ ràng sự thiếu tự tin trong xương máu của nhiều sinh viên khi đứng thuyết trình (tôi cũng có, nhưng khi quan sát người khác, đặc biệt là ở vai trò tương tự như giáo viên, điều này càng rõ ràng hơn). Chúng ta cũng cung cấp nhiều giải pháp, chẳng hạn như nhìn vào tóc, áo của khán giả thay vì mắt, thiết kế cử chỉ trên sân khấu để tăng phong thái, luyện tập trọng âm và giọng điệu khi đọc稿. Điều này tất nhiên mang lại hiệu quả tốt, nhưng phong thái thực sự lại liên quan đến sự tự tin. Nhiều người có thể rèn luyện được sự tự tin thông qua nhiều lần đứng thuyết trình, nhưng cũng có không ít người quá phụ thuộc vào các phương pháp, họ cứ né tránh ánh mắt khán giả mỗi khi lên sân khấu, thực chất là đang trốn tránh “tự tin”. Cũng có không ít người đạt được kết quả tốt nhờ các phương pháp này, nhưng thực tế trong lòng họ vẫn còn cảm giác thiếu tự tin. Tôi nghĩ rằng nhiều người không hiểu đúng về “tự tin”. Nó không phải là điều có thể trực tiếp đạt được thông qua các phương pháp và công cụ, mà là điều cần rèn luyện thông qua nhiều lần trải nghiệm và tiếp xúc. Ngoài ra, động lực nội tại và nội dung thực tế cũng rất quan trọng. Theo tôi, nếu một người thực sự hiểu rõ điều mình muốn nói và có mong muốn mãnh liệt chia sẻ, họ không cần đến lý thuyết phương pháp, vẫn có thể thể hiện sự tự tin ở một cấp độ cao hơn. Quay trở lại ngữ cảnh “tự tin văn hóa”, một người nếu thực sự hiểu rõ nền văn hóa của mình và có cảm giác gắn bó mạnh mẽ, họ không cần quá quan tâm đến các câu hỏi bề ngoài như “Làm thế nào để bảo tồn văn hóa?”, “Có nên chống lại văn hóa ngoại lai?”, hay “Làm thế nào để đối xử với văn hóa phương Tây?”. Họ thậm chí không cần nghĩ đến những câu hỏi này, họ sẽ toát ra từ tận đáy lòng cái gọi là “tự tin”. Ngược lại, nhiều chương trình giáo dục về “tự tin văn hóa” hiện nay thực chất rơi vào cái bẫy của các phương pháp bên ngoài, tức là “Tại sao cần và làm thế nào để có tự tin văn hóa”, trong khi những điều có thể giúp con người thực sự cảm nhận được vẻ đẹp của văn hóa lại ít được chú trọng hơn. Tôi tin rằng những người dành nhiều thời gian trải nghiệm văn hóa sẽ đạt được sự tự tin văn hóa thực sự, và họ cũng ít có khả năng trở thành những người “chống lại văn hóa ngoại lai”. Những người đưa ra những tuyên bố như vậy thực chất không hiểu rõ về văn hóa của mình, cũng không có sự tự tin văn hóa thực sự. Họ đã dành quá nhiều thời gian để thảo luận trên phương diện lý trí về “làm thế nào” và “tại sao”, mà không nhận ra rằng “tự tin” là một trải nghiệm và niềm tin trên phương diện cảm tính.

Do đó, việc thuyết giảng đạo lý cho những người tự nghi ngờ, lo lắng và tự ti như “Tại sao phải quan tâm người khác nghĩ gì?” hay “Không ai để ý đến bạn đâu!” không có tác dụng nhiều. Khuyến khích họ bước ra khỏi vùng an toàn, thử nghiệm và cảm nhận tình huống thực tế có lẽ sẽ hữu ích hơn. Tôi không nhớ đọc ở đâu, nhưng có một câu đại loại là: Khi có điều gì đó bạn không thể hiểu và nhận biết, lý trí sẽ mách bảo bạn hãy nhìn kỹ hơn, thử nghiệm và trải nghiệm trực tiếp.

Bạn có thể thuyết phục bản thân ở mức độ nào đó, nhưng bạn không thể thuyết phục “bản thân” – bạn có thể dễ dàng tạo ra các con đường logic thông qua việc thay đổi nhận thức, nhưng lý trí (hệ thống hai) của bạn không phải lúc nào cũng hoạt động, và so với cảm tính và bản năng (hệ thống một), nó yếu hơn rất nhiều. Vì vậy, nếu không thể thuyết phục bản thân ở mức độ cảm nhận, bạn sẽ không thể thực sự thuyết phục mình.

Sau khi suy nghĩ, đừng quên trải nghiệm

Đọc vạn cuốn sách, còn phải đi vạn dặm đường. Câu nói xưa này, theo tôi, khuyến khích việc trải nghiệm thực tế bên cạnh việc suy nghĩ sâu sắc.

Một số điều, đối với những người chưa từng trải nghiệm thực tế, là khó hiểu. Từ “hiểu” thực chất rất tinh vi, nó có thể là cảm tính, cũng có thể là lý trí, hoặc cả hai. Nếu trước đây ai đó đột ngột nói với tôi về lợi ích của thiền định, tôi có thể sẽ trả lời: “Nghe anh/chị nói thì thật tuyệt, tôi cũng không thấy chỗ nào sai cả, nhưng tôi nghĩ mình sẽ không thử, có lẽ nó không phù hợp với tôi.” Tôi không thể thực sự hiểu sâu sắc rằng “thiền định là một thói quen tốt.”

Khi thử nghiệm một hoặc hai lần, tôi nhận ra rằng nó thực sự giúp tôi tĩnh tâm hơn. Sau một buổi sáng bận rộn, tôi thường rất khó tập trung trở lại sau giờ nghỉ trưa. Nhưng nếu tôi dành 5-15 phút để thiền trong giờ nghỉ, tôi sẽ không dễ dàng rơi vào vòng xoáy vô nghĩa của việc lướt mạng xã hội và xem phim. Lúc này, tôi mới có thể nói từ tận đáy lòng: “Anh/chị nói đúng, thiền định thực sự mang lại nhiều lợi ích!”

Bạn cũng có thể nói “Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý.” Dù sao đi nữa, thực tiễn, trải nghiệm, tiếp xúc là một phần không thể thiếu trong quá trình tìm kiếm chân lý, nếu không có sự trải nghiệm thực tế, chúng ta phải thừa nhận rằng quan điểm của mình có thể sai lầm.

Tất nhiên, trải nghiệm cũng có thể lừa dối chúng ta, nhưng điều này không nằm trong phạm vi thảo luận của bài viết này.

  1. Cách phân loại Hệ thống một (System 1) và Hệ thống hai (System 2) mà tôi học được từ cuốn sách “Suy nghĩ, Nhanh và Chậm” (Thinking, Fast and Slow) có thể hiểu đơn giản là trực giác, suy nghĩ không tốn công, suy nghĩ nhanh (Hệ thống một) và lý trí, suy nghĩ cần tốn công, suy nghĩ chậm (Hệ thống hai). ↩︎

  2. Thực tế, tôi nghĩ rằng cách diễn đạt này có chút vấn đề. Nếu “Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý” là một chân lý, thì bạn sẽ thiết kế thí nghiệm như thế nào để kiểm nghiệm nó? Ngay cả khi bạn có thể kiểm nghiệm, nhưng trước khi chứng minh rằng câu nói này là chân lý, bạn làm sao có thể sử dụng chính câu nói này để chứng minh và kiểm nghiệm tính chính xác của nó? Mặc dù cách diễn đạt có thể chưa hoàn hảo, nhưng tư tưởng của nó là đáng học hỏi và hiểu rõ.↩︎